Giúp tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900 tỷ đồng/năm
Theo
báo cáo của Văn phòng Chính phủ, một trong những dấu ấn đặc biệt trong
xây dựng Chính phủ điện tử là khai trương Cổng dịch vụ công quốc gia.
Từ
thời điểm Thủ tướng Chính phủ nhấn nút khai trương (ngày 9.12.2019) với
8 dịch vụ công ban đầu, đến ngày 8.3, đã có hơn 2.800 dịch vụ công được
tích hợp, cung cấp trên tổng số gần 6.800 thủ tục hành chính tại 4 cấp
chính quyền, với hơn 116 triệu lượt truy cập, hơn 468.000 tài khoản đăng
ký; hơn 42,5 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; trên 940.000 hồ sơ thực
hiện trực tuyến và hơn 67.000 giao dịch thanh toán điện tử (tổng số tiền
hơn 26,7 tỷ đồng) trên Cổng; tiếp nhận, hỗ trợ trên 53.000 cuộc gọi,
hơn 10.000 phản ánh, kiến nghị.
Những
con số này cho thấy sự quan tâm rất lớn cũng như kỳ vọng của người dân,
doanh nghiệp trong việc sử dụng một cổng tập trung để thực hiện các
giao dịch trực tuyến với Chính phủ.
Chi phí tiết kiệm được khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia là hơn 8.100 tỷ đồng/năm.
Việc
xây dựng, vận hành Trục liên thông văn bản quốc gia và xử lý văn bản
trên môi trường mạng cũng giúp tiết kiệm trên 1.200 tỷ đồng mỗi năm từ
tiền giấy, mực, sao lưu, gửi bưu chính, chi phí thời gian...
Tính
đến nay, đã có hơn 4,5 triệu văn bản điện tử gửi, nhận qua Trục liên
thông văn bản quốc gia. Số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trong năm
2020 gấp 2,5 lần so với năm 2019.
Một
điểm nhấn nữa là Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia, Trung tâm thông
tin, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được khai
trương, là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ
liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay, hệ thống
đã kết nối với Hệ thống báo cáo của 14 bộ, cơ quan và 37 địa phương.
"Các
hệ thống thông tin do Văn phòng Chính phủ chủ trì triển khai nêu trên
được đưa vào vận hành giúp tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900
tỷ đồng/năm (theo cách tính của OECD) và nhận được phản hồi tích cực của
xã hội," Báo cáo nhấn mạnh.
Theo
báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến năm 2020, những nền tảng
quan trọng nhất cho phát triển Chính phủ điện tử Việt Nam đã được hình
thành và bước đầu phát huy hiệu quả.
Mạng
truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước đã kết nối
đến 100% các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 98% quận,
huyện, thị xã.
Một
số cơ sở dữ liệu tạo nền tảng Chính phủ điện tử đã được xây dựng, gồm
cơ sở dữ liệu về Bảo hiểm quản lý thông tin của 24 triệu hộ gia đình
tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của trên 90 triệu người dân có
thẻ bảo hiểm y tế.
Cơ
sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp chứa thông tin đăng ký
doanh nghiệp theo thời gian thực của hơn 1 triệu doanh nghiệp và đơn vị
trực thuộc; tỷ lệ số hóa hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đạt 100%.
Cơ sở dữ liệu tài chính chứa thông tin quản lý thuế của khoảng 65 triệu cá nhân và trên 700.000 doanh nghiệp.
Cơ sở dữ liệu giáo dục chứa thông tin của trên 53.000 trường học; 1,5 triệu giáo viên; 23 triệu hồ sơ học sinh.
Cơ sở dữ liệu danh mục dùng chung của Bộ Y tế gồm 10.000 đầu thuốc, 41.000 cơ sở kinh doanh dược...
Ngày
25.2, cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư được khai trương. Tính đến tháng
12/2020, gần 40 nền tảng “Make in Viet Nam” do cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam xây dựng đã được giới thiệu, ra mắt.
Phát triển Chính phủ điện tử là một điểm sáng nổi bật trong nhiệm kỳ
Phát
biểu tại cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc lại Báo cáo khảo sát
xếp hạng mức độ phát triển chính phủ điện tử năm 2020 của Liên hợp
quốc, xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam đứng thứ
86/193 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm 2018. Qua đó, cho thấy chúng ta
có rất nhiều cố gắng trong xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử.
Tuy
nhiên, trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí thứ 6.
Năm nước có vị trí cao hơn Việt Nam là Singapore, Malaysia, Thái Lan,
Brunei, Philippines.
Đặc
biệt, sự thăng hạng của một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan từ
73 lên 57, Indonesia từ 107 lên 88, Campuchia từ 145 lên 124, Myanmar từ
157 lên 146.
Theo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, việc chỉ số Chính phủ điện tử của các nước
trong khu vực tăng mạnh đồng nghĩa với môi trường đầu tư kinh doanh,
năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo của các nước này tiếp tục tăng, là
đối tượng cạnh tranh với nước ta trên các lĩnh vực...
Thủ tướng nhấn mạnh đây là thách thức lớn đối với chúng ta, cần thấy rõ vấn đề này để có phấn đấu cao hơn.
Thủ
tướng nêu rõ với việc ban hành Nghị quyết 17, lần đầu tiên chúng ta có
kế hoạch tổng thể về triển khai Chính phủ điện tử ở Việt Nam. Nghị quyết
17 đã chú trọng vào việc xây dựng thể chế và yêu cầu nền tảng dùng
chung. Đây là hai vấn đề quan trọng mà chúng ta chưa làm được trong
nhiều năm.
Điểm
lại một số kết quả nổi bật, Thủ tướng cho biết, cùng với những thành
tựu quan trọng, toàn diện về kinh tế-xã hội, những nỗ lực mạnh mẽ trong
chỉ đạo thực hiện và những kết quả quan trọng đạt được trong xây dựng và
phát triển Chính phủ điện tử là một điểm sáng nổi bật trong nhiệm kỳ
Chính phủ vừa qua, nhất là năm 2020.
Bên
cạnh đó, Thủ tướng chỉ ra một số mặt tồn tại, hạn chế như môi trường
pháp lý cho Chính phủ điện tử chưa hoàn thiện (một số Nghị định quan
trọng vẫn chưa được ban hành, đặc biệt là về bảo vệ dữ liệu cá nhân;
định danh, xác thực điện tử...
Tỷ
lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 vẫn thấp. Các cơ sở dữ liệu quốc
gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành triển khai chưa đáp ứng được tiến độ, kế
hoạch đã đề ra...
Về
định hướng nhiệm vụ thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh công tác xây
dựng thể chế, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến, triển khai hiệu quả Cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư, để giảm giấy tờ trong xử lý thủ tục hành
chính.
Thủ
tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh tiến độ xây dựng Cơ sở
dữ liệu đất đai quốc gia, bảo đảm đến tháng 7.2021 hoàn thành kết nối,
chia sẻ dữ liệu đất đai theo quy định.
Về
các nền tảng Chính phủ điện tử, các bộ, ngành, địa phương sử dụng, khai
thác hiệu quả các dịch vụ cung cấp trên nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ
liệu quốc gia, chủ động chia sẻ cung cấp dữ liệu của mình cho các cơ
quan nhà nước khác...
Thủ
tướng nhấn mạnh 100% cơ quan, tổ chức nhà nước hoàn thành xác định cấp
độ an toàn hệ thống thông tin và đề xuất phương án bảo đảm an toàn thông
tin.
Các
bộ, ngành, địa phương hoàn thành xây dựng, triển khai ngay các chiến
lược, chương trình, kế hoạch, đề án chuyển đổi số cho giai đoạn mới;
quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ theo Chương trình chuyển đổi số quốc
gia.
Các
bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp duy trì, tiếp tục phát triển các
hoạt động trực tuyến, ứng dụng công nghệ số trong mọi mặt đời sống kinh
tế-xã hội như đã được hình thành trong thời gian dịch COVID-19.