BỘ CÔNG AN | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
| |
BÁO CÁO
Giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo
Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (đã có 144 lượt ý kiến phát biểu: 125 ý kiến tại tổ và 19 ý kiến tại Hội trường). Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) của Quốc hội và các đơn vị có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý đối với dự thảo Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Bộ Công an xin báo cáo kết quả giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo Luật như sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật (Điều 1)
- Một số ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật để bao quát hết các lực lượng có tính chất tự nguyện, tự quản tham gia hỗ trợ Công an cấp xã; cần có một chương riêng về vai trò của người dân đối với công tác bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Có ý kiến đề nghị làm rõ lực lượng bảo vệ các chung cư do ban quản lý bố trí thì có được coi là lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự (TGBVANTT) ở cơ sở không.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Theo quy định tại Điều 46 Hiến pháp năm 2013 thì mọi công dân đều có nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Luật Công an nhân dân (khoản 1 Điều 14) quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm tham gia, phối hợp, cộng tác, hỗ trợ Công an nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Công an nhân dân và các luật khác có liên quan như Luật Thanh niên năm 2020, Pháp lệnh Cựu chiến binh năm 2005, Luật Phòng cháy, chữa cháy năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) và điều lệ của các tổ chức hội, đoàn thể thì trên thực tế có nhiều lực lượng tình nguyện, tự quản tham gia hỗ trợ Công an nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT. Tuy nhiên, hỗ trợ có tính chất thường xuyên, nòng cốt, có quá trình thực hiện lâu dài trên phạm vi toàn quốc thì chỉ có 03 lực lượng, đó là bảo vệ dân phố, dân phòng và Công an xã bán chuyên trách.
Mục tiêu của việc xây dựng Luật này là tạo cơ sở pháp lý để sắp xếp, kiện toàn tại 03 lực lượng sẵn có thành 01 tổ chức với chức năng, nhiệm vụ tập trung, làm nòng cốt trong hỗ trợ Công an chính quy bảo vệ ANTT ở cơ sở. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các lực lượng tự quản lý như: Bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, bảo vệ chung cư… sẽ không phù hợp về vị trí, vai trò cũng như tính chất hoạt động giữa lực lượng do chính quyền thành lập với lực lượng hoạt động hoàn toàn tự quản hoặc theo hợp đồng dịch vụ bảo vệ…
Vì vậy, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất không mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật.
2. Về vị trí, chức năng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Điều 2)
Nhiều ý kiến đề nghị thể hiện rõ hơn vị trí, chức năng của lực lượng này để tránh chồng chéo, trùng lặp với vị trí, chức năng của Công an cấp xã và một số lực lượng hiện có ở cơ sở. Một số ý kiến đề nghị xác định rõ đây là lực lượng của Nhà nước hay là lực lượng quần chúng; xác định đây là lực lượng quần chúng tự nguyện, được vận động, tuyển chọn để tham gia hỗ trợ lực lượng Công an hoặc được huy động thực hiện nhiệm vụ; làm rõ hơn tính chất, mức độ, phạm vi tham gia hỗ trợ cho lực lượng Công an; không chỉ tham gia hỗ trợ lực lượng Công an, mà còn hỗ trợ chính quyền địa phương và Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở; làm rõ vai trò “nòng cốt” hoặc không quy định lực lượng này làm nòng cốt trong xây dựng mô hình tự quản về an ninh, trật tự mà chỉ hỗ trợ cho lực lượng Công an trong bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Tiếp thu các ý kiến trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất bổ sung Điều 2 (giải thích từ ngữ) tại dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý để làm rõ khái niệm “Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở” và chỉnh lý vị trí, chức năng của lực lượng này tại Điều 3 để thể hiện rõ hơn vị trí là lực lượng quần chúng được bố trí ở cơ sở và thể hiện rõ chức năng làm nòng cốt trong hỗ trợ lực lượng Công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở. Đã chỉnh lý Điều 4, Điều 5, Chương II và Mục 1 Chương III để làm rõ hơn tính chất, mức độ, phạm vi tham gia của lực lượng này hỗ trợ lực lượng Công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT trên địa bàn phụ trách và được điều động thực hiện nhiệm vụ ngoài địa bàn phụ trách trong một số trường hợp nhất định; khẳng định đây là lực lượng chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý của chính quyền, sự giám sát của Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Công an cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT; đồng thời không quy định lực lượng này làm nòng cốt trong xây dựng mô hình tự quản về ANTT ở cơ sở.
3. Về nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Chương II)
- Nhiều ý kiến cho rằng một số nhiệm vụ quy định cho lực lượng này quá nhiều và nặng; cần quy định phù hợp với vị trí, chức năng, trình độ, năng lực để bảo đảm tính khả thi; tránh chồng chéo, trùng lặp với nhiệm vụ của Công an cấp xã và các lực lượng khác ở cơ sở như Dân quân tự vệ, lực lượng bảo vệ…; thể hiện rõ tính chất tham gia hỗ trợ lực lượng Công an. Một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể, rõ ràng hơn để dễ thực hiện; quy định rõ phạm vi, mức độ, phương thức thực hiện nhiệm vụ; bổ sung một số nhiệm vụ mà thực tiễn đang diễn ra như phát hiện, phòng ngừa bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bạo lực trẻ em, người cao tuổi, buôn lậu, sử dụng trái phép chất ma túy...
- Một số ý kiến tham gia về các từ ngữ, nội dung tại Điều 8 và Điều 12, rà soát Điều 9 để không trùng lặp với với nhiệm vụ của lực lượng phòng cháy, chữa cháy, chỉnh lý lại tên Điều 10, quy định Điều 12 cho phù hợp với vị trí, chức năng và tránh lạm quyền, tránh bỏ sót nhiệm vụ.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội rà soát, bổ sung, chỉnh lý nhiệm vụ của lực lượng TGBVANTT ở cơ sở tại Chương II cho rõ ràng, cụ thể hơn, phù hợp với vị trí, chức năng, trình độ, năng lực của lực lượng này để bảo đảm tính khả thi; thể hiện rõ đây là lực lượng hỗ trợ Công an cấp xã và thực hiện nhiệm vụ cùng với Công an cấp xã, theo sự hướng dẫn, phân công, chỉ đạo của Công an cấp xã; bảo đảm không để chồng chéo, trùng lặp với nhiệm vụ của các lực lượng khác ở cơ sở như Dân quân tự vệ, lực lượng bảo vệ… đã được quy định trong các luật có liên quan; bổ sung nhiệm vụ tham gia nắm tình hình về trật tự, an toàn xã hội, bạo lực gia đình trên địa bàn phụ trách và thực hiện theo yêu cầu, hướng dẫn của Công an cấp xã khi phát hiện vụ việc xảy ra.
- Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quyền hạn của lực lượng TGBVANTT ở cơ sở; quy định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp lực lượng này vi phạm, gây ra thiệt hại. Có ý kiến đề nghị bổ sung trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong bảo vệ ANTT ở cơ sở cho thống nhất với quy định tại Điều 1 dự thảo Luật.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Đây là lực lượng quần chúng được tuyển chọn TGBVANTT ở cơ sở, tính chất hoạt động là tham gia hỗ trợ theo sự hướng dẫn, phân công, chỉ đạo trực tiếp của Công an cấp xã nên việc quy định quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của lực lượng này là không phù hợp. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong bảo vệ ANTT đã được quy định trong Hiến pháp, Luật An ninh quốc gia, Luật Công an nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Còn tại Điều 1 của dự thảo Luật quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan đối với lực lượng TGBVANTT ở cơ sở.
4. Về tiêu chuẩn tuyển chọn; bố trí lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
4.1. Về tiêu chuẩn tuyển chọn (Điều 4)
- Nhiều ý kiến cho rằng tiêu chuẩn tuyển chọn như dự thảo Luật là quá cao, đề nghị quy định cho phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi; đề nghị ưu tiên tuyển chọn là bộ đội, công an xuất ngũ, cựu chiến binh, đảng viên, đoàn thanh niên, đồng bào dân tộc, người trong các tôn giáo, người am hiểu về phong tục, tập quán, nắm vững địa bàn, người có uy tín. Có ý kiến đề nghị quy định tiêu chuẩn về trình độ văn hóa cho phù hợp với đặc thù đối với những địa phương ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; cân nhắc tính khả thi của các quy định “quy hoạch, kế hoạch lựa chọn lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở”.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội chỉnh sửa như tại Điều 13 dự thảo Luật đã tiếp thu, chỉnh lý cho phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi; đồng thời, bỏ quy định “quy hoạch, kế hoạch lựa chọn lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở”.
- Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung quy định tiêu chuẩn về độ tuổi tối đa; quy định độ tuổi tối đa khi tham gia lực lượng này là không quá 65 tuổi.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Theo dự thảo Luật thì một trong những tiêu chuẩn để công dân được tuyển chọn tham gia lực lượng TGBVANTT ở cơ sở là bảo đảm tiêu chuẩn về sức khỏe theo quy định. Mặt khác, nếu giới hạn độ tuổi tối đa sẽ khó thu hút người dân tham gia, nhất là những người dù nhiều tuổi nhưng vẫn đủ sức khỏe, có kiến thức, tâm huyết, trách nhiệm trong công tác xã hội. Đồng thời, từ trước đến nay, pháp luật cũng chưa quy định độ tuổi tối đa trong việc tuyển chọn người tham gia lực lượng dân phòng, bảo vệ dân phố và Công an xã bán chuyên trách, nên việc bổ sung quy định độ tuổi tối đa đối với người tham gia lực lượng là không phù hợp với thực tế.
Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến ĐBQH, nhằm bảo đảm yêu cầu về sức khỏe, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất bổ sung vào dự thảo Luật đã tiếp thu chỉ quy định về trường hợp cho thôi tham gia lực lượng TGBVANTT ở cơ sở trong trường hợp không còn bảo đảm về sức khỏe (tại điểm b khoản 3 Điều 17).
- Một số ý kiến cho rằng, việc quy định không phân biệt giới tính đối với người tham gia lực lượng này là khó thực hiện đối với phụ nữ. Có ý kiến đề nghị thay từ “tuyển chọn” bằng “bầu tổ viên” để bảo đảm dân chủ, sự tín nhiệm của Nhân dân; nghiên cứu bổ sung cơ chế để những người có nguyện vọng và tình nguyện thì có thể đăng ký tham gia; bỏ quy định “có thời hạn tạm trú 01 năm trở lên”.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Thực tế hiện nay trên toàn quốc đang có nhiều thành viên nữ tham gia lực lượng dân phòng, bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được sử dụng và vẫn đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc quy định không phân biệt giới tính là xuất phát từ vị trí, tính chất hoạt động của lực lượng này và cũng là thống nhất với Luật Bình đẳng giới. Đối với ý kiến đề nghị thay từ “tuyển chọn” bằng “bầu tổ viên” được giải trình tại Mục 4.2. Đối với công dân có nguyện vọng và tự nguyện có làm đơn đề nghị tham gia lực lượng TGBVANTT ở cơ sở thì phải bảo đảm các tiêu chuẩn và phải có thời hạn tạm trú từ 01 năm trở lên, vì nhiệm vụ bảo vệ ANTT là nhiệm vụ quan trọng và có tính đặc thù.
- Một số ý kiến đề nghị làm rõ việc tuyển chọn là thành lập mới hay kiện toàn từ các lực lượng đã có.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất bổ sung quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 2 dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý là: “Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở là lực lượng quần chúng được thành lập trên cơ sở kiện toàn lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng, các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng hoặc được tuyển chọn để tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở”; đồng thời thể hiện xuyên suốt nội dung này thông qua các hoạt động từ xác định tiêu chuẩn, tuyển chọn… cho đến các quy định về bảo đảm chế độ, chính sách trong dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý.
4.2. Về bố trí lực lượng; chức danh, công nhận chức danh, thành lập Tổ bảo vệ an ninh, trật tự (Điều 13)
- Nhiều ý kiến đề nghị về số lượng Tổ bảo vệ ANTT, số lượng thành viên mỗi Tổ tại từng thôn cần tính toán đến đặc thù của địa bàn thành thị, nông thôn, vị trí địa lý, quy mô dân số, quy mô kinh tế, tình hình kinh tế - xã hội, ANTT và việc bố trí các lực lượng khác sẵn có tại địa phương; cần quy định cụ thể số lượng tối đa, tối thiểu, tiêu chí, điều kiện thành lập Tổ bảo vệ ANTT. Một số ý kiến đề nghị tách Điều 13 thành các điều riêng quy định cụ thể về bố trí lực lượng, thủ tục thành lập và các vấn đề có liên quan đến bố trí lực lượng.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội cho tách Điều 13 dự thảo Luật do Chính phủ trình thành 03 điều luật riêng quy định về bố trí lực lượng, tuyển chọn Tổ viên, chức danh, công nhận chức danh và nhiệm vụ của các chức danh Tổ bảo vệ ANTT; bổ sung quy định rõ hơn về bố trí lực lượng, chức danh, công nhận chức danh, thành lập Tổ bảo vệ ANTT bảo đảm chặt chẽ. Về số lượng Tổ bảo vệ ANTT cần thành lập, số lượng từng chức danh của Tổ bảo vệ ANTT tại thôn, tổ dân phố thuộc phạm vi quản lý đối với từng đơn vị hành chính cấp xã hoặc huyện nơi không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã sẽ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định trên cơ sở căn cứ tình hình, yêu cầu bảo đảm ANTT, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
- Một số ý kiến đề nghị rà soát lại quy trình thành lập lực lượng, bầu Tổ viên để đơn giản trình tự, thủ tục; một số ý kiến tham gia về quy định bầu Tổ viên. Có ý kiến đề nghị thẩm quyền thành lập Tổ bảo vệ ANTT nên giao cho cấp tỉnh; bổ sung quy định thành lập Tổ bảo vệ ANTT đối với huyện không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã. Có ý kiến đề nghị Công an địa phương chủ trì phối hợp xét chọn theo tiêu chí rồi trình Chủ tịch UBND cấp xã quyết định hoặc tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp xã trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định; hoặc giao cho Trưởng thôn phối hợp với Ban công tác Mặt trận thôn thống nhất lập danh sách đề nghị, Công an cấp xã thẩm định và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã công nhận; Công an cấp xã phối hợp với Ban công tác Mặt trận thôn thẩm tra hồ sơ tuyển chọn và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã công nhận.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội nghiên cứu quy định về xét tuyển thay cho việc bầu Tổ viên Tổ bảo vệ ANTT để bảo đảm đơn giản hóa thủ tục, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, tiết kiệm chi phí và thống nhất với quy định về tuyển chọn đội trưởng, đội phó đội dân phòng (tại Điều 15 dự thảo Luật đã tiếp thu, chỉnh lý). Việc quy định xét tuyển bảo đảm công khai, dân chủ dưới sự giám sát của quần chúng nhân dân. Trên cơ sở quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về số lượng Tổ, số lượng từng chức danh của Tổ bảo vệ ANTT, Công an cấp xã có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ ANTT; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo đề nghị của Công an cấp xã quyết định thành lập Tổ bảo vệ ANTT và từng chức danh của Tổ bảo vệ ANTT. Đồng thời, dự thảo Luật đã giao cho Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết việc tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ ANTT.
- Một số ý kiến đề nghị quy định toàn bộ lực lượng dân phòng để kiện toàn vào lực lượng này và tùy theo từng địa phương, tính chất đặc thù để tổ chức lực lượng cho phù hợp.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Nếu thu hút toàn bộ lực lượng dân phòng để kiện toàn vào lực lượng TGBVANTT ở cơ sở thì tổng số lượng người tham gia sẽ lên đến hàng triệu thành viên, sẽ tác động đến tăng chi ngân sách nhà nước, không phù hợp với thực tiễn và chưa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Dự thảo Luật quy định chức danh Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự đồng thời là đội trưởng, đội phó đội dân phòng sẽ bảo đảm linh hoạt, nhanh chóng trong chỉ đạo, lãnh đạo, điều động lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT ở cơ sở, đồng thời vẫn tiếp tục duy trì lực lượng dân phòng để huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia công tác PCCC, cứu nạn, cứu hộ ở cơ sở theo quy định của Luật phòng cháy và chữa cháy.
- Một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc sắp xếp, kiện toàn lực lượng TGBVANTT ở cơ sở để không làm tăng biên chế, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ với các lực lượng khác, không phát sinh thủ tục hành chính; đánh giá cụ thể mô hình tổ chức, người tham gia để không bị lãng phí nguồn nhân lực; việc bố trí lực lượng cần tính toán đến đặc thù khác biệt giữa thành thị và nông thôn.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội rà soát, chỉnh lý các quy định về sắp xếp, kiện toàn, bố trí lực lượng phù hợp với tình hình, yêu cầu bảo đảm ANTT, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương, không làm tăng biên chế, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ với các lực lượng khác, bảo đảm tính khả thi; rà soát các nội dung bảo đảm thống nhất với Luật Phòng cháy và chữa cháy về quy định chức danh của lực lượng dân phòng; theo đó, tại khoản 2 Điều 16 dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý quy định: Tại thôn, tổ dân phố đã bổ nhiệm chức danh Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng theo quy định của pháp luật phòng cháy và chữa cháy, Công an cấp xã căn cứ năng lực, trình độ chuyên môn của người đã được bổ nhiệm để đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định công nhận là chức danh Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự.
- Một số ý kiến cho rằng, nếu giao địa phương quyết định số lượng Tổ bảo vệ ANTT, số lượng các chức danh Tổ bảo vệ ANTT sẽ dẫn đến tăng số lượng, đề nghị cân nhắc điều chỉnh cho hợp lý.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Nếu quy định “cứng” về khung về số lượng Tổ, số lượng các chức danh của Tổ bảo vệ ANTT sẽ không phù hợp với tình hình thực tiễn, không sát với nhu cầu của từng thôn, tổ dân phố, vì mỗi vùng miền, khu vực thành thị, nông thôn có sự khác nhau. Do đó, dự thảo Luật quy định theo hướng “mở” để chính quyền địa phương căn cứ yêu cầu, điều kiện thực tiễn để quyết định số lượng Tổ bảo vệ ANTT ở cơ sở và số lượng người tham gia hoạt động là phù hợp và bảo đảm tính khả thi.
5. Về bảo đảm cho hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
5.1. Về kinh phí hoạt động và trang bị cơ sở vật chất của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Điều 16)
- Nhiều ý kiến đề nghị báo cáo đánh giá kỹ hơn về tổ chức, ngân sách khi thành lập lực lượng TGBVANTT ở cơ sở, cần có số liệu cụ thể chứng minh “không làm tăng biên chế”, “không làm tăng ngân sách” so với thực tiễn hiện nay, không sử dụng số liệu “cứng” là 300.000 người như trong Tờ trình dự án Luật. Một số ý kiến đề nghị tính toán đầy đủ mức chi ngân sách, mức hỗ trợ để vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vừa động viên, khuyến khích được người dân tham gia, vừa bảo đảm khả năng chi của ngân sách và phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước; đề nghị Bộ Tài chính tổng hợp, báo cáo đánh giá tổng chi ngân sách sẽ là bao nhiêu khi Luật này có hiệu lực thi hành; đề nghị bổ sung quy định rõ khung mức hỗ trợ.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau:
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và UBTVQH, ý kiến tham gia các bộ, ban, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan, Chính phủ đã bổ sung đánh giá tác động chính sách của dự án Luật, bổ sung thông tin, số liệu có liên quan về thực trạng tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách, bảo đảm điều kiện hoạt động đối với lực lượng dân phòng, bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng hiện nay, trong đó đánh giá cụ thể về thực trạng lực lượng, nguồn lực hiện có, thực trạng chi hiện nay và khả năng bảo đảm kinh phí, ngân sách của các địa phương để chi trả chế độ, chính sách và bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng TGBVANTT ở cơ sở bảo đảm tính khả thi; cụ thể như:
Thực tế hiện nay, các địa phương trong cả nước đều bảo đảm ngân sách để chi trả cho tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách, bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, Công an xã bán chuyên trách được tiếp tục sử dụng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công an phối hợp với Bộ Tài chính và các đơn vị chức năng nghiên cứu, đánh giá tổng thể về thực trạng chi hiện nay của các địa phương cho tổ chức, hoạt động của các lực lượng TGBVANTT ở cơ sở; khái toán tổng mức chi theo quy định của dự thảo Luật và so sánh với tổng mức chi hiện nay của các địa phương là bảo đảm cân đối với mức chi trung bình từ 20 tỷ đến 30 tỷ/01 năm/01 tỉnh, thành phố (từ 2 tỷ đến 2,5 tỷ/01 tháng). Theo đó, khi kiện toàn các lực lượng, chức danh thành một lực lượng thống nhất thì vẫn thực hiện chi trả chế độ, chính sách, bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng TGBVANTT ở cơ sở như mức trung bình hiện nay các địa phương đang chi trả cho các lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách, các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng; còn về lâu dài sẽ giảm và không phải chi trả ngân sách cho nhiều lực lượng như hiện nay thì các địa phương sẽ có điều kiện tập trung nguồn lực, cơ sở vật chất để bảo đảm tốt hơn nữa về chế độ, chính sách cho lực lượng TGBVANTT ở cơ sở. Dự thảo Luật đã được quy định theo hướng kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành đã được thực tiễn kiểm nghiệm để tiếp tục quy định đối với lực lượng TGBVANTT ở cơ sở bảo đảm không làm tăng chi ngân sách nhà nước và có tính khả thi.
Đối với ý kiến về số liệu khoảng 300.000 người tham gia lực lượng TGBVANTT ở cơ sở, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Đây là số liệu thống kê nguồn lực sẵn có hiện nay của lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng và các chức danh Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng. Tuy nhiên, các địa phương căn cứ yêu cầu thực tiễn tại địa phương mình về nhiệm vụ bảo vệ ANTT ở cơ sở và số lượng người đang được sử dụng thực tế để quyết định việc bố trí lực lượng theo hướng tăng hoặc giảm số lượng phù hợp với điều kiện, khả năng và yêu cầu của từng địa phương.
- Nhiều ý kiến đề nghị quy định rõ nguồn ngân sách để bảo đảm tính khả thi, có thể giao ngân sách Trung ương bảo đảm, giao Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định, lấy từ các nguồn xã hội hóa, đóng góp của người dân ở địa phương và nguồn huy động hợp pháp khác.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an đã phối hợp với Thường trực UBQPAN của Quốc hội chỉnh sửa vào dự thảo Luật theo hướng: Kinh phí bảo đảm hoạt động và trang bị cơ sở vật chất đối với lực lượng TGBVANTT ở cơ sở do ngân sách nhà nước bảo đảm và các nguồn tài chính huy động hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Hằng năm, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động và trang bị cơ sở vật chất của lực lượng TGBVANTT ở cơ sở theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Nhiệm vụ chi của Bộ Công an do ngân sách trung ương bảo đảm, nhiệm vụ chi của địa phương do ngân sách địa phương chi trả theo quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh để thống nhất với quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
- Một số ý kiến đề nghị quy định về chế độ, chính sách cho phù hợp với tính chất hoạt động của lực lượng này để vừa bảo đảm cho lực lượng này thực hiện được nhiệm vụ, vừa thu hút lực lượng tham gia và bảo đảm yên tâm công tác. Một số ý kiến đề nghị quy định về chế độ, chính sách cho phù hợp, bảo đảm cân đối, hài hòa với chế độ chính sách đang chi trả cho các chức danh khác đang hoạt động ở cơ sở (như tổ trưởng tổ dân phố, bí thư chi bộ...); quy định cụ thể chế độ, chính sách và phải có sự phân biệt rõ giữa các thành viên trong Tổ bảo vệ ANTT. Một số ý kiến đề nghị rà soát lại chế độ đối với các chức danh Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ ANTT đồng thời làm Đội trưởng, đội phó đội dân phòng để bảo đảm các mức hỗ trợ không trùng lặp.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã rà soát, đánh giá kỹ tác động về chế độ, chính sách, bảo đảm điều kiện hoạt động đối với lực lượng TGBVANTT ở cơ sở để chỉnh lý dự các quy định của dự thảo Luật bảo đảm khả thi, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và khả năng chi trả của từng địa phương. Đồng thời, Thường trực UBQPAN cũng chỉ đạo đánh giá đối với chức danh Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ ANTT đồng thời làm Đội trưởng, đội phó đội dân phòng theo quy định của Luật Phòng cháy và chữa cháy để tính toán mức hỗ trợ cho phù hợp, bảo đảm cân đối, hài hòa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Một số ý kiến đề nghị quy định chế độ, chính sách cho lực lượng này theo nhiệm vụ được giao và chỉ hỗ trợ khi được huy động thực hiện nhiệm vụ chứ không hỗ trợ thường xuyên hằng tháng; cần làm rõ hỗ trợ hằng tháng có khác trợ cấp hằng tháng không.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Dự thảo Luật quy định mức hỗ trợ hằng tháng cho lực lượng TGBVANTT ở cơ sở là kế thừa quy định về chế độ hỗ trợ đối với đối tượng đội trưởng, đội phó đội dân phòng, bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đã có từ lâu đang được các địa phương thực hiện. Nếu bỏ quy định hỗ trợ hằng tháng mà chỉ hỗ trợ khi được huy động thì sẽ không thu hút được người dân tham gia lực lượng này, không bảo đảm tính khả thi của Luật.
- Một số ý kiến đề nghị quy định rõ trường hợp địa phương khó khăn về ngân sách, không cân đối được ngân sách để bảo đảm chế độ, chính sách cho lực lượng này thì cần nghiên cứu xử lý cho phù hợp hoặc đề nghị ngân sách Trung ương hỗ trợ bảo đảm. Một số ý kiến khác cho rằng quy định trường hợp địa phương khó khăn về ngân sách thì trung ương hỗ trợ là mâu thuẫn với quy định của Luật Ngân sách nhà nước vì nhiệm vụ chi của cấp nào thì ngân sách cấp đó bảo đảm.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất lược bỏ nội dung quy định đối với địa phương khó khăn về ngân sách thì được ngân sách trung ương hỗ trợ bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
5.2. Về địa điểm, nơi làm việc của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Điều 17)
- Nhiều ý kiến đề nghị rà soát các quy định về bố trí nơi làm việc cho lực lượng TGBVANTT ở cơ sở để bảo đảm tính khả thi. Một số ý kiến đề nghị quy định theo hướng mở để các địa phương thực hiện cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình; đề nghị giao Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí địa điểm, nơi làm việc cho lực lượng TGBVANTT ở cơ sở. Có ý kiến đề nghị quy định rõ địa điểm, nơi làm việc của lực lượng này để đảm bảo thống nhất giữa các địa phương, vùng miền trong cả nước; có thể là Hội trường Công an xã hoặc Trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã; bổ sung thêm phương án bố trí khác bảo đảm tính khả thi. Ý kiến khác đề nghị bố trí nơi làm việc đảm bảo an toàn, không bố trí tại các địa điểm sinh hoạt động đồng vì lực lượng này có trang bị vũ khí.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Bộ Công an đã thống nhất với Thường trực UBQPAN của Quốc hội chỉnh lý lại nội dung này tại khoản 1 Điều 20 dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý như sau: “Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí địa điểm, nơi làm việc đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở tại địa điểm, nơi sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố hoặc bố trí chung tại địa điểm, nơi làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã hoặc tại địa điểm, nơi làm việc khác phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và khả năng bảo đảm của địa phương”.
5.3. Về bồi dưỡng, hỗ trợ đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở (Điều 20)
Một số ý kiến đề nghị cần quy định khung, mức tối thiểu đối với hỗ trợ thường xuyên hằng tháng, hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế và giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Về ý kiến nêu trên, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội thống nhất nội dung báo cáo như sau: Lực lượng TGBVANTT ở cơ sở là lực lượng quần chúng được tuyển chọn tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, dưới sự quản lý và do chính quyền cơ sở bảo đảm kinh phí chi trả chế độ, chính sách; nếu quy định “cứng” trong Luật về khung mức hỗ trợ thường xuyên hằng tháng và khung mức hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế sẽ không phù hợp với thực tế, nhất là ở các địa phương còn khó khăn về kinh tế, xã hội; và có thể là áp lực về ngân sách đối với các địa phương chưa tự chủ được ngân sách. Về nội dung này trong quá trình hoàn thiện dự án Luật, Cơ quan chủ trì soạn thảo cũng đã trao đổi, xin ý kiến và các địa phương thống nhất quy định theo hướng mở như thể hiện trong dự thảo Luật.
Do đó, Bộ Công an và Thường trực UBQPAN của Quốc hội đã thống nhất đề nghị cho quy định theo hướng mở để chính quyền địa phương quyết định mức hỗ trợ thường xuyên hằng tháng, quyết định mức hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế đối với người tham gia lực lượng TGBVANTT ở cơ sở để phù hợp với thực tế điều kiện ở từng địa phương và bảo đảm tính khả thi của Luật.
Trên đây là Báo cáo của Bộ Công an về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở./.
QUỐC HỘI Luật số: /2023/QH15 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
LuẬt
LỰC LƯỢNG THAM GIA BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác, xây dựng lực lượng, bảo đảm điều kiện hoạt động và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Cơ sở là thôn, làng, ấp, bản, buôn, bon, phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố, khóm, tiểu khu (sau đây gọi chung là tổ dân phố).
2. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở là lực lượng do chính quyền thành lập trên cơ sở tự nguyện tham gia của người dân để tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.
Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được kiện toàn từ lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng, các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng hoặc được tuyển chọn theo quy định của Luật này.
3. Tổ bảo vệ an ninh, trật tự là hình thức tổ chức của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được bố trí ở thôn, tổ dân phố.
4. Chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự là vị trí của người được công nhận để tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của Luật này.
5. Địa bàn phụ trách là thôn, tổ dân phố được giao cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật này.
Điều 3. Vị trí, chức năng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở là lực lượng quần chúng được bố trí ở cơ sở; làm nòng cốt trong hỗ trợ lực lượng Công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.
Điều 4. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý của chính quyền và giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); sự quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phân công, kiểm tra của Công an cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.
3. Đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh, trật tự và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
4. Tại nơi không có đơn vị hành chính cấp xã, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Công an, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện) thực hiện các nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Công an, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã theo quy định của Luật này.
Điều 5. Quan hệ công tác, phối hợp, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Quan hệ công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã thống nhất quản lý về tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
b) Công an cấp xã chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp xã và giúp Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp quản lý về tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phân công, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
2. Quan hệ phối hợp, hỗ trợ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ:
Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo sự phân công, chỉ đạo của Công an cấp xã phối hợp, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi sau đây:
a) Phối hợp với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận ở thôn, tổ dân phố thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và tham gia xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở;
b) Tham gia hỗ trợ lực lượng dân quân tự vệ, dân phòng và lực lượng khác ở cơ sở bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, hải đảo, vùng biển, vùng trời Việt Nam; bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; tuyên truyền, vận động Nhân dân xây dựng địa bàn cơ sở vững mạnh toàn diện; thực hiện chính sách xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, dịch bệnh, phòng cháy, chữa cháy; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và hoạt động phòng thủ dân sự khác;
c) Phối hợp với đoàn thể quần chúng, tổ chức quần chúng tự quản ở địa phương, dân phòng, hòa giải viên cơ sở, lực lượng bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, giải quyết tranh chấp, mẫu thuẫn về an ninh, trật tự ở cơ sở;
3. Nguyên tắc phối hợp, hỗ trợ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ:
a) Phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
b) Bảo đảm sự quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, phân công, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan Công an trong quá trình phối hợp, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
c) Phát huy trách nhiệm của công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự theo quy định của pháp luật.
Điều 6. Hành vi bị nghiêm cấm
1. Sử dụng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện nhiệm vụ trái quy định của pháp luật.
2. Lợi dụng, lạm dụng trong việc thực hiện nhiệm vụ tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở để nhũng nhiễu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Không chấp hành sự phân công, huy động của Công an cấp xã mà không có lý do chính đáng.
4. Giả danh lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
5. Xúc phạm, đe dọa, cản trở lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở khi thực hiện nhiệm vụ.
6. Sản xuất, mua, bán, tàng trữ, sử dụng, chiếm giữ trái phép; làm giả, cầm cố trang phục, huy hiệu, biển hiệu, phù hiệu, giấy chứng nhận của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
7. Phân biệt đối xử về giới trong lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Chương II
NHIỆM VỤ CỦA LỰC LƯỢNG THAM GIA
BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ
Điều 7. Hỗ trợ nắm tình hình an ninh, trật tự
1. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở hỗ trợ Công an cấp xã nắm tình hình vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình trên địa bàn phụ trách thông qua nguồn tin của Nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng theo hướng dẫn của Công an cấp xã.
2. Trường hợp phát hiện, tiếp nhận thông tin vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình trên địa bàn phụ trách phải báo ngay và kịp thời có mặt tại nơi xảy ra vụ việc để thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu, hướng dẫn của Công an cấp xã.
Điều 8. Hỗ trợ xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở hỗ trợ và cùng Công an cấp xã tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho Nhân dân chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự; vận động Nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội; xây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.
Điều 9. Hỗ trợ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ
Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo yêu cầu, hướng dẫn, phân công của Công an cấp xã hỗ trợ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ ở địa bàn phụ trách hoặc địa bàn khác khi được điều động.
Điều 10. Hỗ trợ quản lý hành chính về trật tự xã hội
1. Hỗ trợ và cùng Công an cấp xã nắm thông tin nhân khẩu, kiểm tra nhân khẩu, tạm trú, tạm vắng, giấy tờ tuỳ thân của người đến làm ăn, sinh sống trên địa bàn phụ trách.
2. Hỗ trợ và cùng Công an cấp xã tuyên truyền, vận động cơ quan, tổ chức và Nhân dân trên địa bàn phụ trách chủ động thực hiện khai báo, giao, nộp pháo, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định; phát hiện, ngăn chặn các trường hợp vi phạm quy định về quản lý, sử dụng pháo, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
3. Theo hướng dẫn, phân công của Công an cấp xã nắm thông tin số lượng cơ sở thực tế hoạt động ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự trên địa bàn phụ trách.
Trường hợp phát hiện hoặc do Nhân dân phản ánh vi phạm về an ninh, trật tự xảy ra tại cơ sở hoạt động ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự phải kịp thời báo cáo Công an cấp xã trực tiếp quản lý.
Điều 11. Hỗ trợ vận động, giáo dục người đã có hành vi vi phạm pháp luật đang cư trú tại cơ sở
1. Hỗ trợ và cùng Công an cấp xã vận động, giáo dục người đã chấp hành xong án phạt tù, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện, người đang chấp hành án hình sự tại cộng đồng đang cư trú, sinh sống trên địa bàn phụ trách chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2. Hỗ trợ và cùng Công an cấp xã vận động, giáo dục những người sau đây:
a) Người bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách; người đã chấp hành xong bản án, quyết định của Toà án;
b) Người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quản lý tại gia đình; người phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành; người bị quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng.
Điều 12. Hỗ trợ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tuần tra bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự khi được điều động
1. Hỗ trợ Công an cấp xã hướng dẫn, phân luồng, giải quyết ùn tắc giao thông khi được huy động; hỗ trợ tuần tra, phòng ngừa, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn phụ trách.
2. Khi thực hiện nhiệm vụ tại khoản 1 Điều này mà phát hiện vụ việc liên quan đến an ninh, trật tự, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự cơ sở hỗ trợ Công an cấp xã bảo vệ hiện trường, bảo vệ an ninh, trật tự.
3. Trường hợp xảy ra tình huống phức tạp về an ninh, trật tự ngoài địa bàn phụ trách, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có thể được cấp có thẩm quyền điều động để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Việc sử dụng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trong trường hợp điều động được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Chương III
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, BẢO ĐẢM ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG THAM GIA BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ
Mục 1
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
Điều 13. Tiêu chuẩn tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
Công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có đơn đề nghị tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và có các tiêu chuẩn sau đây được xem xét, tuyển chọn tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở:
1. Có lý lịch rõ ràng; phẩm chất đạo đức tốt; bản thân và gia đình chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành án hình sự tại cộng đồng, chấp hành biện pháp tư pháp hoặc chấp hành biện pháp xử lý hành chính. Trường hợp đã chấp hành xong bản án, quyết định của Tòa án thì phải được xóa án tích; đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì phải hết thời hạn để được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.
2. Có bằng tốt nghiệp hoặc có giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục trung học phổ thông trở lên. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo thì có thể tuyển chọn người đã học xong chương trình trung học cơ sở trở lên; trường hợp không đủ người thì có thể tuyển chọn người đã học xong chương trình tiểu học.
3. Đã đăng ký thường trú hoặc có thời hạn tạm trú từ 01 năm trở lên và thường xuyên sinh sống tại nơi công dân nộp đơn đề nghị tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
4. Có đủ sức khỏe theo giấy chứng nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật.
Ưu tiên tuyển chọn công dân đã có thời gian phục vụ trong lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, công dân am hiểu về phong tục, tập quán, pháp luật, có uy tín trong cộng đồng dân cư tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 14. Bố trí lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được bố trí thành Tổ bảo vệ an ninh, trật tự. Địa bàn phụ trách của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự có thể là một hoặc một số thôn, tổ dân phố thuộc cấp xã hoặc tại huyện nơi không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã.
2. Căn cứ tình hình, yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định số lượng Tổ bảo vệ an ninh, trật tự cần thành lập, số lượng từng chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự tại thôn, tổ dân phố thuộc phạm vi quản lý đối với từng đơn vị hành chính cấp xã hoặc huyện nơi không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã.
3. Căn cứ quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 2 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã theo đề nghị của Công an cấp xã quyết định thành lập Tổ bảo vệ an ninh, trật tự và từng chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự tại thôn, tổ dân phố.
Điều 15. Tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự
1. Căn cứ yêu cầu về bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở, Công an cấp xã có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp xây dựng kế hoạch và tổ chức tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật này.
2. Việc tuyển chọn Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự phải bảo đảm công khai, dân chủ, đúng quy định của pháp luật.
3. Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết Điều này.
Điều 16. Chức danh, công nhận chức danh, nhiệm vụ của chức danh, thành lập Tổ bảo vệ an ninh, trật tự
1. Chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự bao gồm Tổ trưởng, Tổ phó và Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự.
2. Căn cứ kết quả tuyển chọn, Công an cấp xã có văn bản kèm theo danh sách cá nhân được tuyển chọn báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định thành lập Tổ bảo vệ an ninh, trật tự, quyết định công nhận chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự và niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố.
Tại thôn, tổ dân phố đã bổ nhiệm chức danh Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng theo quy định của pháp luật phòng cháy và chữa cháy, Công an cấp xã căn cứ năng lực, trình độ chuyên môn của người đã được bổ nhiệm để đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định công nhận là chức danh Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự.
3. Nhiệm vụ của các chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự:
a) Tổ trưởng Tổ bảo vệ an ninh, trật tự thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; quản lý, điều hành hoạt động của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự; báo cáo tình hình kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm trước Công an cấp xã về hoạt động của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự;
b) Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Tổ trưởng Tổ bảo vệ an ninh, trật tự; điều hành hoạt động của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự khi chưa có Tổ trưởng, Tổ trưởng vắng mặt hoặc được Tổ trưởng ủy quyền;
c) Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo sự lãnh đạo, quản lý, phân công của Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự;
d) Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự thực hiện nhiệm vụ của Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng theo quy định của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
4. Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết khoản 2 Điều này.
Điều 17. Bổ sung, kiện toàn chức danh của Tổ bảo vệ an ninh, trật tự, cho thôi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Bổ sung Tổ viên, bổ sung Tổ bảo vệ an ninh, trật tự trong các trường hợp sau đây:
a) Trường hợp chưa bố trí đủ số lượng Tổ viên, chưa thành lập đủ số lượng Tổ bảo vệ an ninh, trật tự;
b) Trường hợp do yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở cần tăng số lượng Tổ viên, thành lập thêm Tổ bảo vệ an ninh, trật tự.
Trong trường hợp này, Công an cấp xã đề xuất với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo cấp có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật này xem xét, quyết định tăng số lượng Tổ viên, thành lập thêm Tổ bảo vệ an ninh, trật tự.
2. Bổ sung Tổ trưởng, Tổ phó Tổ bảo vệ an ninh, trật tự trong trường hợp chưa đủ chức danh Tổ trưởng, Tổ phố Tổ bảo vệ an ninh, trật tự:
Công an cấp xã có văn bản giới thiệu Tổ trưởng, Tổ phó trong số Tổ viên Tổ bảo vệ an ninh, trật tự, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận chức danh Tổ trưởng, Tổ phố Tổ bảo vệ an ninh, trật tự và niêm yết công khai tại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố.
3. Các trường hợp cho thôi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở:
a) Có đơn xin thôi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
b) Không bảo đảm sức khỏe để tiếp tục tham gia;
c) Không chấp hành theo sự phân công, huy động của Công an cấp xã từ 02 lần trở lên mà không có lý do chính đáng hoặc không hoàn thành nhiệm vụ đã bị nhắc nhở từ 02 lần trở lên mà vẫn tiếp tục vi phạm;
d) Vi phạm pháp luật hình sự đã có quyết định khởi tố bị can hoặc bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật hình sự; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
4. Công an cấp xã chủ trì tiếp nhận đơn xin thôi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở quy định tại điểm a khoản 3 Điều này, tập hợp thông tin, tài liệu đối với trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 3 Điều này; thống nhất với Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định cho thôi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 18. Huấn luyện, bồi dưỡng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được huấn luyện, bồi dưỡng về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, tham gia diễn tập, hội thi phù hợp với nhiệm vụ được giao.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Mục 2
BẢO ĐẢM ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG
THAM GIA BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ
Điều 19. Bảo đảm kinh phí hoạt động và trang bị cơ sở vật chất đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Kinh phí bảo đảm hoạt động và trang bị cơ sở vật chất đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do ngân sách nhà nước bảo đảm và các nguồn tài chính huy động hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Việc quản lý, sử dụng kinh phí hoạt động và trang bị cơ sở vật chất đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định của pháp luật có liên quan.
3. Hằng năm, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động và trang bị cơ sở vật chất của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
Điều 20. Bố trí địa điểm, nơi làm việc và trang bị đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí địa điểm, nơi làm việc đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở tại địa điểm, nơi sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố hoặc bố trí chung tại địa điểm, nơi làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã hoặc tại địa điểm, nơi làm việc khác phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và khả năng bảo đảm của địa phương.
2. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được trang bị hồ sơ, sổ sách, phương tiện, thiết bị cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao.
3. Chính phủ quy định chi tiết khoản 2 Điều này.
Điều 21. Trang bị, quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được trang bị, quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. Việc quản lý, sử dụng công cụ hỗ trợ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Điều 22. Trang phục, huy hiệu, phù hiệu, biển hiệu, giấy chứng nhận của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được trang bị, sử dụng trang phục, huy hiệu, phù hiệu, biển hiệu khi thi hành nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ.
2. Việc cấp, cấp đổi, cấp lại, thu hồi và xử lý hành vi vi phạm làm mất giấy chứng nhận lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
Điều 23. Bồi dưỡng, hỗ trợ đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở
1. Người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được hưởng mức tiền hỗ trợ thường xuyên hằng tháng, được hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế theo mức do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
2. Người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được bồi dưỡng, hỗ trợ khi được cử đi bồi dưỡng, huấn luyện, thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của cấp có thẩm quyền hoặc khi được điều động, huy động thực hiện nhiệm vụ. Mức bồi dưỡng, hỗ trợ được quy định như sau:
a) Khi được cử đi tập trung bồi dưỡng, huấn luyện được hưởng bồi dưỡng bằng mức tiền ăn cơ bản của chiến sĩ nghĩa vụ Công an nhân dân;
b) Khi làm nhiệm vụ từ 22 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, ngày nghỉ, ngày lễ, khi thực hiện công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật về lao động được hưởng mức tiền bồi dưỡng do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
c) Khi làm nhiệm vụ thường trực tại những nơi thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo hoặc tại những đơn vị hành chính cấp xã trọng điểm về quốc phòng được hưởng mức tiền bồi dưỡng ngày công lao động tăng thêm do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
d) Khi được điều động, huy động, cử đi thực hiện nhiệm vụ ngoài địa bàn phụ trách, không có điều kiện đi, về hằng ngày thì được cơ quan ra quyết định huy động, điều động hoặc cử đi thực hiện nhiệm vụ bố trí nơi nghỉ, bảo đảm phương tiện đi lại hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi và về, được hỗ trợ tiền ăn trong thời gian làm nhiệm vụ bằng mức tiền ăn cơ bản của chiến sĩ nghĩa vụ Công an nhân dân.
Điều 24. Giải quyết trường hợp lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở bị ốm đau, bị tai nạn, chết, bị thương, hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ
1. Người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở khi thực hiện nhiệm vụ mà bị ốm đau, bị tai nạn, chết, bị thương, hy sinh thì được giải quyết như sau:
a) Trường hợp không tham gia bảo hiểm y tế, nếu bị ốm đau, bị tai nạn, bị thương thì được hỗ trợ thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh;
b) Trường hợp không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, nếu bị tai nạn làm suy giảm khả năng lao động theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa thì được xét trợ cấp tùy theo mức độ suy giảm khả năng lao động; nếu chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tiền tuất, tiền mai táng phí;
c) Trường hợp bị thương thì được xét hưởng chính sách như thương binh, nếu hy sinh thì được xét công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Điều 25. Nhiệm vụ chi của Bộ Công an
Nhiệm vụ chi của Bộ Công an do ngân sách trung ương bảo đảm để thực hiện chi trả, bao gồm các nhiệm vụ chi:
1. Bảo đảm công tác huấn luyện, bồi dưỡng cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do Bộ Công an tổ chức.
2. Sơ kết, tổng kết, tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do Bộ Công an tổ chức.
Điều 26. Nhiệm vụ chi của địa phương
1. Nhiệm vụ chi của địa phương do ngân sách địa phương chi trả, bao gồm các nhiệm vụ chi:
a) Mua sắm, trang bị, sửa chữa thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ, bồi dưỡng, huấn luyện, diễn tập, hội thi cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do địa phương tổ chức;
b) Mua sắm trang phục, phù hiệu, huy hiệu, biển hiệu, giấy chứng nhận, hồ sơ, sổ sách của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
c) Hỗ trợ thường xuyên hằng tháng, bồi dưỡng, hỗ trợ, bảo đảm điều kiện hoạt động, giải quyết một số trường hợp khi lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Điều 23 và Điều 24 Luật này; chi hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Trường hợp người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở đã tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thì được chi trả chế độ từ quỹ bảo hiểm theo quy định của pháp luật;
d) Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
đ) Sơ kết, tổng kết, tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do địa phương tổ chức;
e) Các khoản chi khác cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức chi cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở quy định tại khoản 1 Điều này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Chương IV
TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Điều 27. Trách nhiệm của Chính phủ
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
2. Nội dung quản lý nhà nước về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở bao gồm:
a) Ban hành, trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, đề án, dự án, kế hoạch về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
c) Xây dựng lực lượng, bồi dưỡng, huấn luyện, tổ chức hoạt động và bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
d) Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
đ) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
Điều 28. Trách nhiệm của Bộ Công an
Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và có trách nhiệm sau đây:
1. Trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
3. Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng lực lượng, quản lý, bồi dưỡng, huấn luyện và bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định.
4. Chủ trì, phối hợp kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, sơ kết, tổng kết về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo thẩm quyền.
5. Hướng dẫn tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng trong lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 29. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
1. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công an trình cấp có thẩm quyền cân đối, bố trí kinh phí chi thường xuyên của ngân sách trung ương trong dự toán giao của Bộ Công an hằng năm để thực hiện Luật này theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chịu trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 30. Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp
1. Hội đồng nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm sau đây:
a) Quyết định về kế hoạch, đề án, bố trí lực lượng, bảo đảm điều kiện hoạt động đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan;
b) Quyết định ngân sách bảo đảm cho lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở của địa phương theo quy định của pháp luật;
c) Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
2. Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và có trách nhiệm sau đây:
a) Trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt, quyết định về quy hoạch, kế hoạch, dự án, đề án, bố trí lực lượng, bảo đảm điều kiện hoạt động đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở và dự toán thu, chi ngân sách bảo đảm cho hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở;
b) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan;
c) Tổ chức phổ biến pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở thuộc phạm vi quản lý;
d) Thực hiện chức năng quản lý, chỉ đạo về tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo thẩm quyền; bố trí địa điểm, nơi làm việc, kinh phí bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định;
đ) Có phương án bố trí sắp xếp nhiệm vụ hoặc giải quyết chế độ theo thẩm quyền đối với Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng không tiếp tục thực hiện nhiệm vụ do không được bố trí tham gia Tổ bảo vệ an ninh, trật tự khi được kiện toàn thống nhất;
e) Tổ chức phong trào thi đua của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở gắn với phong trào thi đua của chính quyền địa phương.
3. Tại nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện về kết quả tổ chức, hoạt động của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trên địa bàn. Hội đồng nhân dân cấp huyện tại nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp xã hoặc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tại nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp xã và Hội đồng nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 31. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp Nhân dân thực hiện pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; vận động, giám sát, phản biện xã hội việc thực hiện pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 32. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.
Điều 33. Điều khoản chuyển tiếp
1. Chậm nhất đến ngày 01 tháng 7 năm 2025, các địa phương phải thống nhất về tổ chức lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo quy định của Luật này trên cơ sở kiện toàn thống nhất lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng, các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng.
2. Không áp dụng quy định tại Điều 13 Luật này đối với lực lượng bảo vệ dân phố, Công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng, các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng khi tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.
Điều 34. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều khoản của một số luật có liên quan
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 44 Luật Phòng cháy, chữa cháy số 27/2001/QH10, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 40/2013/QH13 như sau:
“1. Tại thôn phải thành lập đội dân phòng. Người được công nhận chức danh Tổ trưởng, Tổ phó tổ bảo vệ an ninh, trật tự theo quy định của pháp luật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được bổ nhiệm chức danh Đội trưởng, Đội phó đội dân phòng đã được thành lập ở thôn. Đội dân phòng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập, quản lý.”.
2. Bổ sung điểm c vào sau điểm b khoản 4 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12, được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật số 46/2014/QH13 như sau:
“c) Người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.”.
3. Sửa đổi, bổ sung điểm n khoản 1 Điều 55 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 14/2017/QH14 như sau:
“n) Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.”.
4. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 6 Luật An ninh quốc gia số 32/2004/QH11 như sau:
“2. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xây dựng lực lượng Công an xã, dân quân tự vệ, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, dân phòng tham gia hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật.”.
5. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số khoản, điểm tại Điều 16 và Điều 46 Luật Công an nhân dân số 37/2018/QH14 như sau:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 13 Điều 16 như sau:
“13. Hướng dẫn, huấn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đối với các tổ chức quần chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự tại cơ sở, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.”;
b) Bãi bỏ điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 46.
6. Bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 32 Luật Thi đua, khen thưởng số 06/2022/QH15 như sau: “5. Danh hiệu thi đua, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.”.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ … thông qua ngày … tháng … năm 2023.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI