"Văn hóa soi đường cho sự phát triển và tiến
bộ của xã hội" - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định điều này ngay từ
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại các Hội
nghị Văn hóa toàn quốc những năm 1946, 1948. Luận điểm này của Người thể
hiện tầm nhìn vượt thời đại khi nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của văn hóa
trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
“Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự
quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt
Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng, tính đi trước của văn
hóa, coi đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thắng
lợi: “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Như vậy, văn hóa là toàn bộ những sáng tạo,
phát minh về vật chất và tinh thần của con người nhằm bảo đảm cho sự
sinh tồn và phát triển của cá nhân, cộng đồng và rộng ra là cả quốc gia,
dân tộc.
Và “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong
tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ. Với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi
người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu
cái nhiệm vụ của mình và biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được
hưởng”.
Và với Người, xây dựng nền văn hóa, không chỉ
thuần túy quan tâm đến ngành hay lĩnh vực văn hóa riêng biệt mà phải chú
trọng đến sự đồng bộ của nhiều yếu tố, từ chính trị, kinh tế, tâm lý,
luân lý, xã hội.
Trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm
hội họa 1951,” Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như
mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và
chính trị”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”.
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh
nhận thức tư duy, hành vi của mỗi cá nhân cả cộng đồng và xã hội, văn
hóa có sức mạnh to lớn: Dưỡng tư tưởng đạo đức và nhân cách con người.
Là bộ phận cấu thành đặc sắc của văn hóa, văn
học nghệ thuật phải gắn bó mật thiết với đời sống, đấu tranh quyết liệt
giữa cũ và mới, giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa tích cực và tiêu
cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa
tư tưởng:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Quan điểm về người nghệ sĩ-chiến sĩ là đóng góp
có ý nghĩa cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận và thực
tiễn xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới ở nước ta.
Nhiều quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được kế thừa và phát triển
Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về văn hóa trở thành kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức
toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn
lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(tháng 12.1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ
trương đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhằm đưa đất nước đi vào
thế ổn định và phát triển.
Sau một thời gian khủng hoảng kinh tế-xã hội và
sau những biến động phức tạp của tình hình chính trị quốc tế, hai kỳ
Đại hội này ưu tiên tập trung xác định đường lối phát triển kinh tế, ổn
định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển, nhưng chưa được
xem là vấn đề trọng tâm.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (tháng 7.1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển
biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn
hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng.
Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn
hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Vai trò nguồn lực văn hóa đối với phát triển đã
được đúc kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển”.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của
Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa
VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9.6.2014, về “Xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”.
Trong Nghị quyết này, Đảng nhấn mạnh đến nhiệm
vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính
trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng,
hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội.
Nhận thức mới có tính đột phá của Đảng về nguồn
lực văn hóa đối với phát triển được thể hiện ở việc khẳng định vai trò
của văn hóa trong chính trị và trong kinh tế. Chính trị và kinh tế là
hai lĩnh vực then chốt của xã hội phải được đặt trên nền tảng văn hóa và
phải phát huy vai trò của nguồn lực văn hóa đối với việc phát triển hai
lĩnh vực trên.
Đảng ta nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang
hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đây chính là sự tiếp nối tư tưởng
Hồ Chí Minh trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế.
Nguồn lực văn hóa được kết tinh tập trung nhất
là ở con người. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân
cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có
ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động
giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính.
Đây chính là cách tiếp cận tổng thể về văn hóa
để nhìn rõ hơn sức mạnh và sự lan tỏa của văn hóa, của các giá trị
chân-thiện-mỹ vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, tạo nên sự phát
triển hài hòa, bền vững của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
“Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011-2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
432/QĐ-TTg, ngày 12.42012) cũng khẳng định quan điểm con người là trung
tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa
nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục
tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân…
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020, Đảng ta khẳng định một trong những quan điểm phát triển là mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ.
Đây là một trong ba khâu đột phá chiến lược để
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đã bổ sung, cụ thể hóa các đột phá chiến lược này cho phù hợp với
giai đoạn phát triển mới, trong đó nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho
công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng
cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo
dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học-công
nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí
phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của nguồn
lực văn hóa, nhất là nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh
tế-xã hội, đặc biệt trong bối cảnh mới không ít thách thức, nguy cơ với
nhiều biến động bất ngờ, khó lường, Đảng ta nhấn mạnh định hướng phát
triển đất nước giai đoạn mới cần “phát triển con người toàn diện và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa,
con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” bởi “tài năng, trí tuệ, phẩm chất của
con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan
trọng nhất của đất nước”.
Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực
văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta
ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc quan tâm chú trọng phát triển nguồn
lực văn hóa, con người, phát huy tối đa tiềm năng “sức mạnh mềm” của
đất nước là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy xã hội phát
triển bền vững, đồng thời nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Theo Vietnam+