Những
di sản văn hoá vật chất còn tồn tại đến kháng chiến chống Pháp như
đình, chùa, đền, miếu… cho thấy Quảng Nghiệp đã có sức sống lâu bền.
Đình làng Mạc, đình làng Ngái được xây dựng khang trang từ đời Trần;
đình làng Gồm tuy xây dựng sau nhưng to đẹp uy nghi. Chùa, nơi hành đạo
của Phật giáo; các bi ký của xã đã ghi: Năm 1675, bà Nguyễn Thị Nội; năm
1703, bà Thái Thị Thiện; năm 1760, bà Nguyễn Thị Te; năm 1774, bà
Trương Thị Diệu Phụng; năm 1797, vợ chồng ông Trần Phú Nghĩa đã cung
tiến ruộng cho nhà chùa, được bầu hậu. Chứng tỏ Quảng Nghiệp có dân cư
về đây sống từ lâu đời và thịnh đạt vào thời nhà Lê.
Quảng
Nghiệp có 3 thôn: Thôn Gồm còn gọi là thôn Kiêm Tân, thôn Ngái còn gọi
là thôn Mỹ Đức, thôn Mạc còn gọi là thôn An Nghiệp. Cả 3 thôn trước kia
gọi là làng, lập thành một xã (nhất xã tam thôn) gọi là xã An Nghiệp
thuộc tổng Ngọc Lâm, phủ Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Sau khi giành được chính
quyền, tháng 4 năm 1946, thực hiện chủ trương của trên, thôn Bía (còn
gọi là thôn Quảng Bí) được hợp nhất với xã An Nghiệp và được đặt tên là
xã Quảng Nghiệp. Quảng Nghiệp có nghĩa là an cư lạc nghiệp. Đến tháng 6
năm 1956, một số xã trong huyện lại được điều chỉnh. Thôn Bía nay được
tách ra để cùng một số thôn khác lập xã Đại Hợp. Quảng Nghiệp còn 3 thôn
như trước đây nhưng tên xã thì không thay đổi.
Quảng Nghiệp có diện tích tự nhiên 364,44 ha, dân số có 1590 hộ và 4807 nhân khẩu (Tháng 10 năm 2020); mật độ 856 người/km2;
phía đông giáp xã Đại Hợp, phía tây giáp xã Thống Kênh (huyện Gia Lộc),
phía nam giáp xã Hồng Đức và xã Ứng Hòe (huyện Ninh Giang), phía bắc
giáp xã Dân Chủ.
Nằm
ở phía tây, cách trung tâm huyện lỵ Tứ Kỳ 12 km, Quảng Nghiệp có đường
37A (đường liên tỉnh) chạy từ thành phố Hải Dương qua địa phận xã trên
1,5 km xuống thị trấn Ninh Giang để sang Thái Bình hoặc đi Hải Phòng.
Con đường này không những là điểm nối với nhiều con đường giao thông
liên thôn, liên xã cho xe cơ giới đi lại dễ dàng, tạo điều kiện cho địa
phương phát triển kinh tế và văn hoá mà còn có ý nghĩa chiến lược về
quân sự trong tỉnh.
Về
đường sông: Quảng Nghiệp có sông Đĩnh Đào nằm về phía Nam xã ranh giới
với huyện Ninh Giang. Đây là con sông được bắt nguồn từ sông Sặt, chảy
về sông Tứ Kỳ rồi đổ ra sông Thái Bình. Trước đây khi chưa có xe cơ
giới, dòng sông này là nơi thuyền bè vận chuyển hàng hoá đi lại nhiều
nơi trong tỉnh và tỉnh bạn.
Quảng
Nghiệp là nơi chung cư của trên 20 dòng họ, tuy về sớm, muộn khác nhau,
dân số khác nhau, kinh tế và học vấn khác nhau…nhưng qua nghìn năm sinh
tồn, phải đối mặt với thiên tai, trộm cướp, giặc dã, đã hun đúc lên
truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng trong
đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống giặc ngoại xâm và có nếp sống
thuần hậu. Nhân dân Quảng Nghiệp là người Kinh, theo đạo Phật. Nghề
nghiệp chủ yếu là làm nông nghiệp, sản xuất thủ công, tự cấp tự túc. Từ
bao đời nay, sức kéo phục vụ canh tác là trâu, bò, với chiếc cày chìa
vôi, chiếc bừa, chiếc cuốc để vỡ đất, cuộc sống của người dân nghèo khổ,
lạc hậu.
Trước
năm 1956, do chưa có đê Gồm, chưa có hệ thống thuỷ nông, chưa có máy
bơm nước nên việc canh tác rất vất vả. Về vụ chiêm, sản xuất nhờ vào
nước mưa, nếu nguồn nước không đủ, người nông dân phải dùng gầu giai,
gầu sòng hoặc guồng nước để tát từ ao, đầm, từ 2 đến 3 bậc. Nhiều khu
đồng cao do không có nước phải bỏ hoang, cỏ mọc um tùm như khu Mả Lao
vòng về Quán Ngái. Vụ mùa tuy diện tích canh tác đến 540,4 mẫu nhưng
cũng chỉ cấy được khoảng 400 mẫu, nếu lụt muộn thì chỉ cấy được khoảng
300 mẫu vì có nhiều triều trũng. Những giống lúa được gieo cấy như giống
lúa ri, cút, chăm, quảng, sài đường…đều là giống lúa năng suất thấp.
Bên cạnh các giống lúa phục vụ cho đời sống ăn uống thường ngày, Quảng
Nghiệp còn cấy các giống lúa như dự, tám và nếp cái hoa vàng. Đây là các
giống lúa gạo thơm ngon, chủ yếu phục vụ ngày giỗ, tết hoặc đem bán với
giá cao.
Do
canh tác lạc hậu, cấy giống lúa kém năng suất, lại không có phân hoá
học, không biết chăm bón đúng kỹ thuật, không có thuốc trừ sâu, trừ
chuột nên thu hoạch chỉ bình quân đạt 60 kg thóc/ sào một vụ.
Về
cây màu, Quảng Nghiệp trước đây chỉ trồng cây khoai lang, cây ngô để
tăng nguồn lương thực, nhưng cũng chỉ có ít diện tích ở khu đồng cao.
Cây đỗ, cây vừng và rau các loại tuy có trồng nhưng chỉ tự phát và chỉ
để góp phần cải thiện sinh hoạt.
Về
môi trường, Quảng Nghiệp có nhiều cá tôm tự nhiên, lại có nhiều khu trú
ngụ để sinh sản, nên có rất nhiều loài chim về sinh sống, như vạc, cò,
tu hú, chim cu, chim sáo, diều hâu, quạ, vịt trời...làm cho thiên nhiên
Quảng Nghiệp vừa phong phú, vừa sinh động.
Ngoài
nghề trồng lúa, Quảng Nghiệp còn chăn nuôi gia súc, gia cầm; nuôi trâu,
bò để cày kéo, cải thiện và đem bán. tuy chưa phải là sản xuất lớn
nhưng cũng là một nếp sống đặc trưng của nông dân, nông nghiệp, nông
thôn, để một gia đình tiểu nông có thể duy trì sự tồn tại của mình.
Trong cái chung mỗi thôn còn có đặc trưng riêng.